Lịch sử New Hollywood

Những thành công đầu tiên

Sự ra đời của New Hollywood được báo hiệu bằng bộ phim Bonnie & Clyde của đạo diễn Arthur Penn vào năm 1967. Trong phim, hai tài năng điện ảnh trẻ là Warren BeattyFaye Dunaway thủ vai cặp tình nhân Bonnie và Clyde, một băng cướp ngân hàng và chống chính phủ nổi tiếng ở Mỹ thời Đại khủng hoảng. Bonnie and Clyde đã làm khán giả kinh ngạc vì nội dung và hình ảnh mang đầy tính bạo lực, tình dục, châm biếm nhưng cũng thể hiện được những suy nghĩ nông nổi của tuổi trẻ trong một xã hội đầy biến động. Sự ủng hộ của khán giả trẻ với bộ phim thậm chí đã khiến các nhà phê bình phải thay đổi lại bài bình luận vốn rất tiêu cực của họ về tác phẩm này[15] Thành công của bộ phim đã giúp Hollywood nhận ra sự thay đổi về gu thưởng thức của khán giả[16][17] Cũng trong năm này, Mike Nichols cho ra đời The Graduate, một bộ phim tâm lý có nhân vật chính là anh thanh niên vừa tốt nghiệp đại học (Dustin Hoffman) đang phải đứng trước rất nhiều sự lựa chọn của cuộc sống. Đây là tác phẩm đầu tiên sử dụng nhạc viết riêng cho phim của ban nhạc Simon và Garfunkel.

Tiếp nối Bonnie & Clyde là một bộ phim mang tính phản kháng tiêu biểu nữa của Hollywood, Easy Rider (1969) do Dennis Hopper đạo diễn và đóng vai chính bên cạnh Peter FondaJack Nicholson. Bộ phim mang đầy chất hippie này đã tấn công thẳng vào chủ nghĩa bảo thủ và phân biệt chủng tộc vốn ăn sâu trong xã hội nước Mỹ, nội dung đó của phim đã khiến nó được thế hệ Woodstock đón nhận nhiệt liệt. Dòng phim chiến tranh truyền thống của Hollywood cũng được Robert Altman đem tới một hơi thở mới bằng tác phẩm hài hước châm biếm MASH (1970). Tuy lấy bối cảnh Chiến tranh Triều Tiên nhưng bộ phim đã phản ánh những suy nghĩ thực sự về chiến tranh của người Mỹ trong bối cảnh Chiến tranh Việt Nam đang ở đỉnh điểm về sự khốc liệt, thay vì các diễn viên mang dáng vẻ anh hùng kiểu cũ như John Wayne, Altman đã chọn Donald Sutherland để thể hiện sự vô nghĩa của chiến tranh cùng sự tuyệt vọng của những con người bị cuốn vào vòng xoáy chiến tranh đó bằng một con mắt hết sức hài hước.

Thời kỉ đỉnh cao

Nước Mỹ bước vào thập niên 1970 bằng hai sự kiện lớn, Vụ Watergate khiến tổng thống Richard Nixon phải từ chức và việc Mỹ rút quân khỏi Việt Nam năm 1972. Tiếp tục với truyền thống phản ánh hiện thực xã hội, thế hệ New Hollywood đã lập tức cho ra đời những tác phẩm đề cập tới biến động của nước Mỹ. Đạo diễn gốc Ý Francis Ford Coppola vào năm 1974 đã cho ra đời bộ phim xuất sắc The Conversation, một tác phẩm mô tả một người chuyên nghe lén, phim được công chiếu vào đúng thời điểm vụ nghe lén ở khách sạn Watergate bị vỡ lở. The Conversation được Coppola đạo diễn xen giữa hai bộ phim hình sự cực kì xuất sắc khác, đó là Bố già (The Godfather, 1972) và Bố già phần II (The Godfather Part II, 1974), hai tác phẩm kinh điển của lịch sử điện ảnh Mỹ này đã thay đổi hoàn toàn dòng phim hình sự cũng như mang lại một bộ mặt mới đa dạng và có chiều sâu hơn về các băng đảng tội ác.

Dòng phim hành động - hình sự kiểu mới mà Bonnie and Clyde đã khai phá cũng tiếp tục được thế hệ New Hollywood phát triển bằng các bộ phim mang phong cách rất riêng như Paper Moon (1973) của Peter Bogdanovich, Serpico (1973) và Dog Day Afternoon (1975) của Sidney Lumet hay Taxi Driver (1976) của ông vua phim hình sự sau này là Martin Scorsese. Đạo diễn gốc Ba Lan Roman Polanski cũng cho ra đời bộ phim hình sự xuất sắc của dòng phim đen Chinatown (1974).

Dòng phim miền Tây kiểu truyền thống tưởng chừng đã lụi tàn cùng với đại diện của nó là đạo diễn John Ford thì nay lại có sức sống mới nhờ Sam Peckinpah và Arthur Penn. Nếu như Peckinpah cho ra đời những bộ phim miền Tây có những pha hành động hết sức hấp dẫn nhưng vẫn có chiều sâu triết lý như Pat Garrett and Billy the Kid (1973) thì Arthur Penn lại có Little Big Man (1970), tác phẩm mang tính đột phá trong cách nhìn về những người da đỏ, vốn trước đó luôn bị xếp vào phe ác trong phim miền Tây. Một loạt bộ phim miền Tây kiểu mới khác cũng ra đời như Butch Cassidy and the Sundance Kid (1969) của George Roy Hill hay McCabe & Mrs. Miller (1971) của Robert Altman.

Tuy New Hollywood tiêu biểu bởi tinh thần phản kháng xã hội nhưng không vì thế mà thế hệ đạo diễn trẻ thiếu đi chất hài hước. Đại diện xuất sắc nhất của dòng phim hài kiểu mới có lẽ là Woody Allen, một đạo diễn, biên kịch và diễn viên cực kì dồi dào sức sáng tạo, ông cho ra đời liên tiếp các bộ phim có phần thoại hài hước, thông minh được pha trộn trong các mối quan hệ, những suy nghĩ và tình cảm hết sức hiện đại của xã hội Mỹ. Hai tác phẩm tiêu biểu nhất của Allen trong thập niên 1970 là Annie Hall (1977) và Manhattan (1979). Bên cạnh Allen, thế hệ New Hollywood còn có một Mel Brooks, tác giả của những bộ phim hài châm biếm nhẹ nhàng như Young Frankenstein (1974) hay Silent Movie (1976).

George A. Romero là một đạo diễn đặc biệt của thế hệ New Hollywood khi bộ phim quay với kinh phí cực thấp của ông, Night of the Living Dead (1968) đã làm thay đổi hoàn toàn qua niệm của Hollywood về một phim kinh dị thành công. Bộ phim nói về những thây ma zombie đã khiến khán giả yêu thích không chỉ vì nội dung kinh dị rất độc đáo mà còn vì sự phản chiếu tới những vấn đề của xã hội thực tại như chủ nghĩa phân biệt chủng tộc hay chủ nghĩa tiêu thụ. Bên cạnh Romero, dòng phim kinh dị còn có những đại diện tiêu biểu khác như John Carpenter với Halloween (1978) hay Tobe Hooper với The Texas Chain Saw Massacre (1974). Dòng phim rùng rợn đánh vào tâm lý cũng có những bộ phim xuất sắc như Rosemary's Baby (1968) của Roman Polansky hay The Exorcist của William Friedkin.

Không khí phản kháng bi quan của New Hollywood còn ảnh hưởng tới cả dòng phim khoa học giả tưởng. Một loạt những phim khoa học giả tưởng đề cập tới sự hủy diệt của Trái Đất và loài người ra đời như Planet of the Apes (1968 của Franklin J. Schaffner, The Omega Man (1971) của Boris Sagal) hay Silent Running (1972) của Douglas Trumbull. Hai đại diện xuất sắc trong thập niên 1980 của dòng phim khoa học giả tưởng là Ridley ScottGeorge Lucas cũng có những tác phẩm đầu tay được đánh giá cao trong giai đoạn này, đó là THX 1138 (1971) của Lucas và Alien (1979) của Scott.

Sự kết thúc của New Hollywood

Vốn thiên về giá trị nghệ thuật, các tác phẩm của thế hệ New Hollywood dần mất đi vị trí trong hệ thống sản xuất của Hollywood sau khi các hãng phim tìm lại được thành công thương mại từ các bộ phim bom tấn như Hàm cá mập (Jaws, 1975) của Steven SpielbergStar Wars (1977) của Georges Lucas. Nếu như Hàm cá mập đánh dấu sự khai sinh của mùa phim hè với rất nhiều phim bom tấn thì Star Wars lại mở ra cho Hollywood một hướng khai thác khán giả hiệu quả hơn bằng những bộ phim có kĩ xảo độc đáo cùng các mặt hàng ăn theo, phần phim ăn theo. Thành công thương mại quay trở lại với Hollywood đã gây được sự chú ý của các tập đoàn truyền thông khổng lồ của Mỹ, các hãng phim lần lượt bị những công ty đa quốc gia này thâu tóm và quyền lực tuyệt đối của những nhà làm phim nay chuyển dần qua tay của các doanh nhân ngoại đạo.

Bản thân thế hệ New Hollywood bước vào thập niên 1980 cũng với không khí ảm đạm. Sau khi suýt phá sản vì Apocalypse Now (1979), một bộ phim cực kì xuất sắc nhưng ngốn quá nhiều thời gian, tiền của và công sức của nhà làm phim, Francis Ford Coppola cuối cùng đã thất bại với One from the Heart (1982). Sau tác phẩm này, Coppola gần như không còn bộ phim nào có thể sánh với giai đoạn dồi dào sức sáng tạo của ông trong thập niên 1970. Một đạo diễn trẻ đang lên là Michael Cimino, tác giả của The Deer Hunter (1978) cũng cho ra đời Heaven's Gate (1980), một thảm họa về thương mại. Những thất bại này khiến cho các nhà làm phim của thế hệ New Hollywood dần không còn được sự tự do sáng tạo như giai đoạn trước, họ buộc phải cho ra đời các bộ phim có thể đem lại doanh thu cho các công ty mẹ của những hãng phim Hollywood. Cũng phải nhận thấy rằng sau khi chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cùng sự chìm lắng của các phong trào phản kháng, xã hội Mỹ dần trở lại ổn định và khán giả thay đổi dần gu thưởng thức sang các bộ phim có tính giải trí cao và kết thúc có hậu, một sự thay đổi mà rất nhiều đạo diễn của thế hệ New Hollywood đã không thể theo kịp. Thế hệ New Hollywood chấm dứt vào đầu thập niên 1980, sự nghiệp của một số đạo diễn gần như lụi tàn (Bogdanovich, Hal Ashby, Cimino), một số khác rất khó khăn để thích nghi nhưng cũng không bao giờ đạt được thành công như trước (Coppola, Nichols) và chỉ có cá biệt một vài đạo diễn kịp thay đổi phong cách để thích nghi và tiếp tục thành công như Scorsese (mặc dù ông cũng phải trải qua cả thập niên 1980 mà gần như không có tác phẩm nào đáng chú ý).

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: New Hollywood http://www.annonline.com/interviews/980717 http://www.filmcritic.com/misc/emporium.nsf/review... http://media.www.gwhatchet.com/media/storage/paper... http://timesofindia.indiatimes.com/articleshow/424... http://www.satyajitrayworld.com/raysfilmography/un... http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,8... http://www.ucsc.edu/currents/01-02/09-17/ray.html http://culturazzi.org/review/people-celebrities-ar... https://www.imdb.com/title/tt0061418/